Lịch sử giống Gà vảy cá

Ra đời

Vào khoảng 1800, Sir John Sebright bắt đầu lai tạo giống gà vảy cá. Việc lai tạo được thực hiện giữa một số giống gà tre phổ biến với giống gà Ba Lan (Polish fowl). Chúng được lai tạo cho đến khi đạt được kích thước và đặc điểm mong muốn. Sir John phát hiện thấy một con gà tre mã lại (feathering) khi ông ta đi du lịch trong nước. Con gà trống mã lại này được lai với giống gà tre mới của ông do đó mà con cháu đời sau được thừa hưởng gien mã lại.[3] Sir John kiếm được một con gà tre mái màu da bò (buff) ở Norwich, nó rất nhỏ với chân màu xám. Trong chuyến đó ông cũng mua được một con gà trống màu điều không có lông phụng với lông mã như gà mái ở Watford, và một con gà mái nhỏ tương tự như một con gà Hamburg vàng. Sau đó ông kiếm được một con gà trống nhạn từ Vườn Bách Thảo mà nhờ đó ông tạo ra biến thể trắng. Chúng được gọi là gà tre công (pheasant bantam).

Sir John cũng thành lập một câu lạc bộ để thúc đẩy việc cải thiện giống gà của mình. Sebright Bantam Club được thành lập từ cách nay 40 năm bởi Sir John S. Sebright và nhiều nhà chơi gà kiểng khác, những người đã nỗ lực hết mình để ghép bộ lông của giống gà Ba Lan lên giống gà tre càng nhỏ càng tốt. Sir John, Stevens, Hollingworth, Garle và những người khác bắt đầu công trình của mình bằng việc tuyển chọn những con gà Ba Lan tốt nhất và lai xa một cách cẩn trọng với gà tre, để dần đạt được mục tiêu của mình. Họ phải tuyển chọn những đặc điểm tốt nhất, loại bỏ lông bờm và lông đuôi dài, và giảm kích thước, duy trì hết sức có thể hình dáng thực sự khác biệt của giống gà. Điều này gần như đã thành công, nhưng thỉnh thoảng vẫn phải lai xa với gà tre đen, rồi liên tục lai cận huyết để dòng gà ổn định.

Mặc dù người ta thường cho rằng John S. Sebright, cựu thành viên hội đồng hạt Herfordshire, Anh là ông tổ của gà vảy cá, và rằng nhờ quá trình lai tạo lâu dài và cẩn trọng hàng loạt giống gà tre phổ biến cùng với một số kỹ năng bí mật, đã tạo ra một giống gà hoàn toàn mới và khác biệt. Sir John không bao giờ công bố ông tạo ra gà vảy cá khi nào cũng như ông có phải là ông tổ hay không. Các văn bản chỉ lưu ý rằng vào thời mà giống gà xuất hiện, không có tuyên bố nào cho thấy Sir John là ông tổ của giống gà, mà ngược lại trong một văn bản xuất hiện ngay sau khi gà vảy cá ra đời, tác giả nói rằng giống gà đã hình thành, và Sir John là một trong số những tay chơi chủ chốt của giống gà này, dẫn đến kết luận rằng chúng bắt nguồn từ phương đông và có lẽ được Sir John nhập về và phổ biến một cách rất thành công.

Chuẩn hóa

Một con gà vảy cá nâu

Vào thời đó, gà vảy cá rất nhỏ, trọng lượng được giới hạn khoảng từ 850 đến 900 gram một cặp. Năm 1874, người ta mô tả chúng như là gà "Laced Sebright" vàng và trắng. Biến thể vàng phải có màu vàng kim đậm và biến thể trắng màu trắng tinh. Dái tai được gọi là tai điếc và màu trắng. Da đầu được mô tả có màu đỏ, đương nhiên dính dáng đến mồng trong mô tả kế đó về lông đầu. Lông cánh gà trống được mô tả chóp rất xệ, gần như chạm đất. Gà trống trên 740 gram, gà mái trên 620 gram sẽ bị loại, không thấy quy định trọng lượng trống và mái non, không thấy quy định màu của mồng. Gà trống trên 790 gram, gà mái trên 680 gram sẽ không đạt tiêu chuẩn.

Vào năm 1879, trọng lượng chuẩn được xác định gà trống 740 gram, gà mái 680 gram, gà mái tơ 620 gram. Năm 1883, tích được mô tả đỏ tươi. Cánh gà trống được mô tả cánh xệ, nhưng không chạm đất. Trọng lượng điều chỉnh thành gà trống 740 gram, gà mái 620 gram, gà trống tơ 620 gram, gà mái tơ 570 gram. Một giống phân làm hai biến thể, vàng và trắng. Lần đầu tiên, mô tả hình dáng và màu sắc được định nghĩa một cách riêng biệt. Vào năm 1893, dái tai chuyển từ màu trắng thành màu sắc không quan trọng đối với cả hai biến thể. Bộ lông màu vàng kim (gold) chuyển thành vàng (yellow). Màu sắc chung rất nhạt chủ yếu do số lượng lông giảm và viền lông rất nhuyễn.

Lần đầu tiên, đuôi gà trống và gà mái được mô tả phải đạt 70 độ so với đường ngang. Cá thể lố 100 gram so với trọng lượng chuẩn sẽ bị loại. Màu mắt của biến thể vàng chuyển từ sáng sang nâu, mặt và mồng của biến thể trắng chuyển từ đỏ tươi sang tím hanh đỏ. Năm 1915 mô tả dái tai của cả hai biến thể chuyển thành ưu tiên tím hanh đỏ. Biến thể vàng chuyển từ vàng (golden yellow) sang vàng thau (golden bay). Trong hình mới này, viền vảy dường như hơi dày hơn so với minh họa trước đó. Năm 1920 dáng và lưng chuyển từ ngắn sang rất ngắn.

Vào năm 1965, tổ chức Tiêu chuẩn của Hội gà tre Mỹ (American Bantam Association) ra đời. Đây là lần đầu tiên, bản mô tả hoàn chỉnh về hai biến thể gà vảy cá xuất hiện, cả về hình dáng lẫn màu sắc. Lần đầu, mọi thuật ngữ đều được định nghĩa một cách rõ ràng. Nhiều thuật ngữ trước đây chưa hề xuất hiện trong bất kỳ bản tiêu chuẩn nào bao gồm tiêu chuẩn của Hiệp hội Gia cầm Mỹ, Anh, Hà Lan, Đức và Pháp. Hơn nữa, những thuật ngữ hoàn chỉnh được áp dụng cho cả những giống gà tre khác, không thuật ngữ ngoại lệ nào dành riêng cho gà vảy cá.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Gà vảy cá http://www.feathersite.com/Poultry/CGP/Sebr/BRKSeb... http://books.google.com/books?id=mYPnBE0eBcEC&pg=P... http://www.mypetchicken.com/Sebright_Bantam-B99.as... http://www.rarebreeds.co.nz/chooks.html#true http://www.rbta.org/Pdf%20Files/Status%20of%20Rare... http://darwin-online.org.uk/content/frameset?itemI... https://archive.org/details/choosingkeepingc0000gr... https://archive.org/details/keepingchickense0000ho... https://archive.org/details/storeysillustrat0000ek... https://web.archive.org/web/20140411150512/http://...